Developed by JoomVision.com

Trang thông tin điện tử xã Tam Đại - huyện Phú Ninh - tỉnh Quang Nam Trang thông tin điện tử xã Tam Đại - huyện Phú Ninh - tỉnh Quang Nam

Trang thông tin điện tử xã Tam Đại - huyện Phú Ninh - tỉnh Quang Nam Trang thông tin điện tử xã Tam Đại - huyện Phú Ninh - tỉnh Quang Nam

Ý nghĩa chính trị xã hội và nhân văn của "Ngày thương binh liệt sỹ"

Cách mạng tháng tám 1945 thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời chưa được bao lâu thì thực dân Pháp âm mưu trở lại xâm lược nước ta. Núp sau quân Anh - Ấn, chúng trắng trợn gây nên những vụ xung đột vũ trang ở nhiều nơi thuộc Nam Bộ, Trung Bộ. Tiếp đó, khi vào thay thế quân đội Tưởng Giới Thạch ở Bắc Bộ, thực dân Pháp gây ra những vụ bắn phá giết hại dân ta ở Hải Phòng, Hà Nội mở đường cho việc xâm lược cả nước ta.
Kiên quyết bảo vệ thành quả cách mạng, giữ gìn độc lập, tự do, quân và dân ta ở những nơi thực dân Pháp gây hấn đã chiến đấu anh dũng, chặn bàn tay đẫm máu của thực dân xâm lược. Trong cuộc chiến đấu này, một số chiến sĩ, đồng bào ta bị thương và hi sinh. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã giành tình yêu thương của mình, góp phần chăm sóc các gia đình liệt sĩ, anh em thương binh, bệnh binh một cách tận tình chu đáo.

Đầu năm 1946, "Hội giúp binh sĩ tử nạn" sau đổi tên "Hội giúp binh sĩ bị thương" được thành lập ở Thuận Hoá (Bình Trị Thiên), ở Hà Nội và một số nơi khác. Hồ Chủ tịch là hội trưởng danh dự của hội.

Ngày 28/5/1946, "Hội giúp binh sĩ bị nạn" tổ chức một cuộc nói chuyện quan trọng tại nhà hát thành phố Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đến dự. Ngày 7/11/1946, cũng tại nhà hát thành phố Hà Nội, buổi quyên góp ủng hộ quần áo giày mũ cho chiến sĩ ngoài mặt trận đã được tổ chức, mở đầu cho cuộc vận động "Mùa đông chiến sĩ". Tại đây Hồ Chủ Tịch đã cởi chiếc áo rét của Người đang mặc để tặng binh sĩ.

Ngày 19/12/1946, kháng chiến toàn quốc bùng nổ, chiến tranh lan rộng ra nhiều vùng. Số người bị thương, hy sinh tăng lên. Đời sống của chiến sĩ, nhất là những chiến sĩ bị thương gặp nhiều khó khăn, thiếu thốn. Trong tình hình ấy, Đảng và Nhà nước ta đã quyết định nhiều chính sách quan trọng về công tác thương binh liệt sĩ, góp phần ổn định đời sống tinh thần và vật chất của thương binh, gia đình liệt sĩ trong thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.

Tháng 6/1947, đại biểu của tổng bộ Việt Minh, Trung ương hội phụ nữ cứu quốc, Trung ương đoàn thanh niên cứu quốc, cục Chính trị quân đội quốc gia Việt Nam, nhà thông tin tuyên truyền và một số địa phương đã họp tại Đại Từ (Bắc Thái) để bàn về công tác thương binh liệt sĩ và thực hiện Chỉ thị của Hồ Chủ Tịch chọn một ngày nào đó làm ngày Thương binh liệt sĩ. Sau khi cân nhắc nhiều mặt, hội nghị nhất trí đề nghị Trung ương lấy ngày 27/7/1947 làm ngày thương binh liệt sĩ, ngày toàn dân cùng thể hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn.

Ngày 16 tháng 8 năm 1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chính thức ký Sắc lệnh số 20/SL, quy định chế độ hưu bổng, thương tật và tiền tuất tử sĩ. Đây là văn bản pháp quy đầu tiên khẳng định vị trí quan trọng của công tác thương binh liệt sĩ đối với cuộc kháng chiến và sự quan tâm của Đảng, Nhà nước, Chính phủ đến thương binh, bệnh binh và gia đình Liệt sỹ.

Ngày 27 tháng 7 năm 1947, Ngày thương binh toàn quốc, mở đầu bằng cuộc mít tinh quan trọng đã được diễn ra tại xã Hùng Sơn, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên, có khoảng 2.000 người tham gia. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi tặng một chiếc áo lụa, một tháng lương và một bữa ăn của nhân viên trong Phủ Chủ tịch.Tại đây ban tổ chức lễ mít tinh đã trịnh trọng đọc thư của Hồ Chí Minh. Trong thư, Hồ Chí Minh có viết: "Đang khi Tổ quốc lâm nguy, giang sơn, sự nghiệp, mồ mả, đền chùa, nhà thờ của tổ tiên ta bị uy hiếp. Cha mẹ, anh em, vợ con, thân thích, họ hàng ta bị đe doạ. Của cải, ruộng nương, nhà cửa, ao vườn, làng mạc ta bị nguy ngập. Ai là người xung phong trước hết để chống cự quân thù, để giữ gìn đất nước cho chúng ta? Đó là những chiến sĩ mà nay một số thành ra thương binh. Thương binh là những người đã hy sinh xương máu để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ đồng bào. Vì lợi ích của Tổ quốc, của đồng bào mà các đồng chí đó bị ốm yếu. Vì vậy, Tổ quốc và đồng bào phải biết ơn, phải giúp đỡ những người con anh dũng ấy,..."

Từ năm 1947, ngày Thương binh được tổ chức thường kỳ hàng năm. Năm nào vào dịp này, chủ tịch Hồ Chí Minh cũng có thư và quà gửi cho các thương binh, gia đình liệt sĩ, đồng thời nhắc nhở mọi người phải biết ơn và hết lòng giúp đỡ thương binh, gia đình liệt sĩ

Sau thắng lợi to lớn nhưng cũng kèm theo nhiều thương vong ở chiến dịch Điện Biên Phủ ngày 7/5/1954. Chính phủ và chủ tịch Hồ Chí Minh càng quan tâm hơn đến công tác thương binh, lệt sỹ. Và từ năm 1955, ngày 27 tháng 7 ngày Thương binh được đổi thành ngày Thương binh Liệt sĩ.

Nhân dịp kỉ niệm 50 năm ngày thương binh liệt sĩ (27/7/1947-27/7/1997) tại xóm Bàn Cờ, xã Hùng Sơn, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên, nơi chứng kiến sự ra đời của ngày Thương binh toàn quốc. Bộ Lao động - Thương binh và xã hội cùng Uỷ ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên đã khánh thành khu kỉ niệm 27/7 và dựng bia kỉ niệm với nội dung được khắc trên bia: "Nơi đây, ngày 27 tháng 7 năm 1947, 300 cán bộ, bộ đội và đại diện các tầng lớp nhân dân địa phương họp mặt nghe công bố bức thư của Bác Hồ, ghi nhận sự ra đời của ngày Thương binh, liệt sĩ"

Vào ngày 12/7/1997 địa danh xóm Bàn Cờ, xã Hùng Sơn, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên chính thức được Nhà nước công nhận là di tích lịch sử Quốc gia.

Hiện nay, hàng năm vào dịp ngày 27/7, trong cả nước diễn ra nhiều hoạt động long trọng kỷ niệm ngày Thương binh Liệt sĩ. Trong dịp này từ trung ương đến địa phương đều tổ chức các đoàn lãnh đạo đảng, chính quyền, đoàn thể đến thăm, tặng quà cho các gia đình thuộc diện chính sách, viếng nghĩa trang liệt sỹ và nhiều hoạt động ý nghĩa khác

Theo Pháp lệnh ưu đãi người có công số 26/2005/PL-UBTVQH, người có công với cách mạng bao gồm: Người hoạt động cách mạng trước ngày 01-01-1945; người hoạt động cách mạng từ ngày 01-01-1945 đến trước Tổng khởi nghĩa 19-8-1945; Liệt sĩ; Bà mẹ Việt Nam anh hùng; Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, Anh hùng Lao động; Thương binh, người hưởng chính sách như thương binh; Bệnh binh; Người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học; Người hoạt động cách mạng, hoạt động kháng chiến bị địch bắt tù, đày; Người hoạt động kháng chiến giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế; Người có công giúp đỡ cách mạng; Thân nhân của người có công với cách mạng(1).

Kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc "Uống nước nhớ nguồn, đền ơn đáp nghĩa", ngay từ những ngày đầu kháng chiến chống thực dân Pháp (năm 1947), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quyết định chọn ngày 27-7 là ngày Thương binh - Liệt sĩ, nhằm tôn vinh và tỏ lòng biết ơn đối với thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sỹ và người có công. Hồ Chủ tịch đã nói: "Thương binh, bệnh binh, gia đình bộ đội, gia đình liệt sỹ là những người có công với Tổ quốc. Bởi vậy bổn phận của chúng ta là phải biết ơn, thương yêu và giúp đỡ họ". Vì vậy, chăm sóc, ưu đãi người có công với cách mạng có ý nghĩa chính trị, xã hội to lớn và trở thành một nguyên tắc được ghi nhận trong Hiến pháp nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Điều 67 Hiến pháp năm 1992 quy định: "Thực hiện tốt các chính sách ưu đãi với người có công với nước, vận động toàn xã hội tham gia các hoạt động đền ơn đáp nghĩa, nâng cao mức sống về mặt vật chất tinh thần của người có công"(2). Đây là yếu tố nhằm thực hiện sự tiến bộ và công bằng xã hội, góp phần ổn định chính trị, thúc đẩy sự nghiệp đổi mới phát triển.

Hình ảnh ngẫu nhiên từ thư viện ảnh

You are here: Home Văn hoá Văn nghệ Ý nghĩa chính trị xã hội và nhân văn của "Ngày thương binh liệt sỹ"
Green Blue Orange Back to Top